The Big O | |
Vị trí | 4549 Pierre de Coubertin Avenue Montreal, Quebec H1V 3N7 |
---|---|
Chủ sở hữu | Régie des Installations Olympiques (Chính quyền Quebec) |
Sức chứa | Bóng chày: 43.739 Bóng bầu dục: 65.255 |
Kích thước sân | Foul Lines – 325 ft (1977), 330 (1981), 325 (1983) Power Alleys – 375 ft Center Field – 404 ft (1977), 405 (1979), 404 (1980), 400 (1981), 404 (1983) Backstop – 62 ft (1977), 65 (1983), 53 (1989) |
Mặt sân | Grass (1976) AstroTurf (1977-2001, 2005-2006) Defargo Astrograss (2002-2003) FieldTurf (2003-2005) FieldTurf (2007- đến nay) |
Công trình xây dựng | |
Khởi công | 28 tháng 4 năm 1973 |
Khánh thành | 17 tháng 7 năm 1976 (Olympics) 15 tháng 4 năm 1977 (bóng chày) |
Chi phí xây dựng | C$ 770 triệu C$ 1,47 tỷ (2006 – bao gồm các chi phí phụ thêm, lãi và chi phí sửa chữa) |
Kiến trúc sư | Roger Taillibert |
Người thuê sân | |
Montreal Expos (NL) (1977-2004) Montreal Alouettes (CFL) (1976-1997; 1997- đến nay [playoff games]) Montreal Manic (NASL) (1981-1983) Montreal Machine (WLAF) (1991-1992) Thế vận hội mùa Hè 1976 Grey Cup (CFL) – 1977, 1979, 1981, 1985, 2001, 2008 |
Sân vận động Olympic [1] (tiếng Pháp: Stade olympique) là một sân vận động ở Montréal, Québec, Canada được xây làm nơi thi đấu cho Thế vận hội mùa Hè 1976. Sân này sau đó đã trở thành sân nhà của các đội bóng chày và môn bóng bầu dục Canada. Kể từ khi Montreal Expos được chuyển qua Washington, D.C. năm 2004, sân vận động này không có đơn vị thuê chính, và được xem như một voi trắng (vật cồng kềnh đắt tiền mà không có ích gì lắm, tiếng Anh: white elephant). Hiện tại sân này có sức chứa 56.040 chỗ cho nhiều sự kiện khác nhau (hoà nhạc, hội chợ thương mại) trong các tháng không phải trong mùa Đông và cũng là sân tổ chức các trận Montreal Alouettes và Grey Cup. Tháp nghiêng có tên gọi là la tour de Montréal, là tháp nghiêng cao nhất thế giới với chiều cao 175 m là một thành viên của Liên đoàn tháp lớn thế giới.
Comments
Post a Comment